Tình hình ngành nuôi trồng thủy sản của nước ta hiện nay
Tình hình ngành nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam hiện nay đang có sự phát triển đáng kể. Với vị trí địa lý thuận lợi, nước ta đã tập trung vào việc mở rộng hệ thống ao nuôi và trang trại thủy sản. Sự đầu tư vào công nghệ hiện đại, quản lý chất lượng nước tốt hơn và nghiên cứu về giống cải tiến đã cùng nhau tạo ra sản phẩm thủy sản chất lượng, đáp ứng cả nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, việc giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và duy trì sự cân bằng sinh thái vẫn đang là thách thức, đòi hỏi sự hợp tác từ cả ngành công nghiệp và chính phủ để đảm bảo bền vững cho ngành nuôi trồng thủy sản của nước ta.
Nuôi trồng thủy sản là gì?
Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế quan trọng của nước ta, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế – xã hội, an ninh lương thực và xuất khẩu. Đây là hoạt động đem con giống đã được chọn lọc kỹ càng, có thể là giống tự nhiên hoặc nhân tạo thả vào môi trường nuôi đã được chuẩn bị trước đó. Nuôi trồng thủy sản bao gồm nuôi trồng các sinh vật dưới nước như cá, động vật thân mềm (trai), giáp xác (tôm, cua và tôm hùm) và rong biển (tảo). Các sinh vật động vật và thực vật được nuôi trong ao và các bể chứa vì mục đích buôn bán thương mại. Nuôi trồng thủy sản phát triển ở tất cả các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, hài hoá với các ngành kinh tế khác.
Các loại hình nuôi trồng thủy sản hiện nay
Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế – xã hội và an ninh lương thực của đất nước. Nuôi trồng thủy sản bao gồm nhiều loại hình khác nhau, phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa lý và nhu cầu thị trường của từng vùng miền. Dưới đây là một số loại hình nuôi trồng thủy sản phổ biến hiện nay:
Nuôi thủy sản biển: Là loại hình nuôi trồng thủy sản trên vùng biển, vịnh, vũng, đảo và các khu vực ven biển. Đối tượng nuôi chủ yếu là các loài cá biển, tôm biển, ngao, sò, hàu, sá sùng, rong biển… Hình thức nuôi thủy sản biển có thể áp dụng các phương pháp nuôi khác nhau như nuôi lồng bè, nuôi ao đất, nuôi ao bạt, nuôi ăn tự nhiên hoặc ăn thức ăn công nghiệp.
Ưu điểm: Hình thức này có ưu điểm là khai thác được nguồn lợi thuỷ sản phong phú của biển, tạo ra sản phẩm có giá trị cao và xuất khẩu được sang nhiều quốc gia.
Nhược điểm: Nuôi thủy sản biển cũng gặp nhiều khó khăn như thiếu nguồn giống chất lượng, thiếu cơ sở hạ tầng và thiết bị nuôi, phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và môi trường biển, chịu ảnh hưởng của các bệnh dịch và cạnh tranh quốc tế.
Nuôi thủy sản nước ngọt: Là loại hình nuôi trồng thủy sản trên các vùng nước ngọt như sông, hồ, ao, đầm… Đối tượng nuôi chủ yếu là các loài cá nước ngọt, tôm nước ngọt, ốc, ếch… Hình thức nuôi thủy sản nước ngọt có thể áp dụng các phương pháp nuôi khác nhau như nuôi ao đất, nuôi ao bạt, nuôi lồng bè, nuôi chung với cây lúa hoặc rau màu…
Ưu điểm: dễ dàng xây dựng và quản lý cơ sở nuôi, có nguồn giống dồi dào và đa dạng, có thể kết hợp với các hoạt động nông nghiệp khác để tăng hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường.
Nhược điểm: nuôi thủy sản nước ngọt cũng gặp nhiều khó khăn như thiếu diện tích mặt nước nuôi, thiếu nguồn nước sạch và ổn định, chịu ảnh hưởng của các bệnh dịch và ô nhiễm môi trường.
Nuôi thủy đặc sản: Là loại hình nuôi trồng các loài thủy sản có giá trị cao hoặc ít được khai thác như lươn, baba, cá sấu, cá rồng, cá ngựa… Nuôi thủy đặc sản có thể áp dụng các phương pháp nuôi khác nhau như nuôi ao đất, nuôi ao bạt, nuôi hồ kính, nuôi trong nhà kính…
Ưu điểm: tạo ra sản phẩm có giá trị cao và độc đáo, có thể phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, du lịch hoặc nghiên cứu khoa học.
Nhược điểm: nuôi thủy đặc sản cũng gặp nhiều khó khăn như thiếu nguồn giống chất lượng, thiếu kỹ thuật nuôi và chăm sóc, thiếu thị trường tiêu thụ ổn định và chịu ảnh hưởng của các quy định pháp luật.
Tình hình nuôi trồng thủy sản nước ta hiện nay
Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản. Với bờ biển dài hơn 3.260 km, có 112 cửa sông, lạch nên tiềm năng nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ là rất lớn. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch nước ta rất đa dạng và chằng chịt, có tới 15 con sông với diện tích lưu vực nước trên 300 km2. Ngoài ra, hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác dọc theo ven biển là khu vực có thể phát triển nuôi trồng thủy sản quanh năm. Trên vùng biển còn có 4.000 đảo lớn nhỏ, trong đó có những đảo lớn, dân cư đông đúc như đảo Vân Đồn, đảo Cát Bà, đảo Phú Quý, đảo Côn Đảo, đảo Phú Quốc, có nhiều vịnh, vũng, khe nứt và các dòng hải lưu. Là ngư trường thuận lợi cho khai thác thủy sản, đồng thời cũng là điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi trồng hải sản và xây dựng cơ sở hậu cần ngành thủy sản. Ngoài điều kiện tự nhiên là đại dương, Việt Nam còn có nguồn lợi nước ngọt ở 2.860 con sông lớn nhỏ và hàng triệu ha đất ngập nước, đầm ao, ruộng trũng, rừng ngập mặn, đặc biệt là nguồn lợi ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long.
Nuôi trồng thuỷ sản xuất phát từ một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cung tự cấp đã trở thành một ngành sản xuất thủy sản tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến, phát triển ở tất cả các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, hài hòa với các ngành kinh tế khác.
Năm 2010, diện tích mặt nước thả nuôi thủy sản trong nước là 641.9 nghìn ha, sản lượng nuôi đạt 590 nghìn tấn. Đến năm 2010, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đạt 1,0243 triệu tấn, tăng 59,6% so với năm 2000, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 2,7323 nghìn tấn, tăng gấp 4,6 lần so với năm 2000. Năm 2021, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đạt 1.135 nghìn ha, sản lượng đạt 4,8554 nghìn tấn, diện tích chăn nuôi thủy sản chỉ tăng 10,8% so với năm 2010 nhưng sản lượng tăng 77,7%. Nhờ đó, giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha nuôi trồng thủy sản tăng từ 103,8 triệu đồng/ha năm 2010 lên 241,2 triệu đồng/ha vào năm 2021.
Nuôi trồng thủy sản 9 tháng đầu năm 2022 sẽ tiếp tục tăng trưởng do sản lượng các sản phẩm chủ lực như cá tra, tôm thẻ chân trắng đều tăng. Sản lượng nuôi trồng thủy sản 9 tháng năm 2022 dự kiến đạt 3.611.2 nghìn tấn, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Ngành nuôi trồng thủy sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng hóa chủ lực, phát triển rộng mở, có vị trí quan trọng và đang tiến đến xây dựng các vùng sản xuất tập trung. Trong đó, đặc biệt ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, tập trung phát triển nghề nuôi cá tra và nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng. Cá tra và tôm đã trở thành thủy sản xuất khẩu có giá trị cao và là một trong những mặt hàng thủy sản chính mang lại hiệu quả kinh tế. Sản lượng cá tra 9 tháng năm 2022 ước chừng đạt 1.139,5 nghìn tấn, tăng 10,9% so cùng kỳ năm trước. Nhu cầu tiêu thụ cá tra hiện nay ngày càng phổ biến trên thế giới nhờ giá trị dinh dưỡng cao. Tính trong 8 tháng năm nay, xuất khẩu cá tra đạt gần 1,8 tỷ USD, tăng đến 81% so với cùng kỳ năm trước. Ngày nay, cá tra đã xuất khẩu sang 149 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ngoài ra, nuôi tôm cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng ứng dụng công nghệ cao. Sản lượng tôm chân trắng 9 tháng năm 2022 ước đạt 533.0 nghìn tấn, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng tôm sú ước đạt 202.1 nghìn tấn, tăng thêm 2.8%.
Để nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi cá tra, tôm phát triển bền vững, các địa phương cần:
Hình thành vùng chăn nuôi thủy sản tập trung, đầu tư vốn và kỹ thuật, kiểm soát chặt chẽ đầu vào và đầu ra, tạo nguồn nguyên liệu chất lượng cao, đầu tư vùng nguyên liệu liên quan đến nông dân để dễ quản lý và kiểm soát giá cả.
Đảm bảo đủ giống chất lượng cao, giá cả hợp lý, đáp ứng kịp thời thời vụ sinh trưởng, ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học trong lai tạo giống mới.
Nghiên cứu xây dựng các mô hình luân canh và đa canh nhằm đảm bảo an toàn môi trường sinh thái.
Việc thực hiện quy hoạch nuôi trồng thủy sản được kết hợp với quy hoạch phát triển hệ thống canh tác nông, lâm nghiệp, công nghiệp hóa nuôi trồng thủy sản và quy hoạch phát triển các vùng lưu vực sông, ven biển, hồ chứa… Thực hiện một mô hình duy nhất, quản lý toàn diện gọi là quản lý tổng hợp vùng .
Tăng cường công tác kiểm soát dịch bệnh và sử dụng thuốc, nhất là thuốc kháng sinh, chế phẩm vi sinh dùng trong nuôi trồng thủy sản để xây dựng và thực hành tiêu chuẩn nuôi sạch bệnh.
Làm tốt những yêu cầu đó, nuôi trồng thủy sản sẽ ngày càng phát triển, mang lại lợi ích kinh tế cho nhiều địa phương cũng như nước ta.
Tìm kiếm cơ hội mở rộng kinh doanh cùng Vietstock
Với bề dày hoạt động gần 20 năm, Vietstock thấu hiểu thị trường Việt Nam cũng như những đặc thù của ngành chăn nuôi trong nước. Vietstock là diễn dàn sáng tạo, mang đến ngành chăn nuôi thủy sản giải pháp mới và công nghệ tiên tiến.
Năm nay, VIETSTOCK và AQUACULTURE VIETNAM sẽ được tổ chức đồng thời trong vòng 3 ngày từ 11 – 13 tháng 10 tại Trung tâm Hội chợ & Triển lãm Sài Gòn (SECC), 799 Nguyễn Văn Linh, Quận 7, TP.HCM. Sự kết hợp này sẽ đem đến đa dạng hơn các giải pháp và cơ hội kết nối kinh doanh toàn cầu đến ngành chăn nuôi, thức ăn chăn nuôi, chế biến thịt và thủy sản.
Với sự góp mặt của hơn 350 đơn vị kinh doanh và hơn 11.000 chuyên gia đầu ngành đến từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, Vietstock 2023 hứa hẹn sẽ là nơi mà các doanh nghiệp và hộ kinh doanh tiếp cận được nhiều kiến thức, giải pháp công nghệ tiên tiến trong ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.
Vietstock 2023 cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trưng bày những sản phẩm tiêu biểu, thế mạnh của mô hình kinh doanh đến khách hàng tiềm năng. Hơn nữa, triển lãm năm nay cũng là nơi để doanh nghiệp và hộ kinh doanh tìm kiếm được những các sản phẩm, dịch vụ và ý tưởng mới từ các đơn vị hàng đầu trong ngành chăn nuôi.
————————–
Đăng ký ngay tại đây, để không bỏ lỡ cơ hội phát triển kinh doanh
- Đăng ký trưng bày: https://vietstock.org/dat-gian-hang/
- Đăng ký tham quan: https://ers.ubmthailand.com/vs23
————————–
Box thông tin:
Để biết thêm thông tin chi tiết, Quý vị vui lòng liên hệ Ban tổ chức:
Ms. Trang – [email protected]
Ms. Phương – [email protected] (Hỗ trợ đăng ký theo đoàn)
Tel: (+84) 28 3622 2588